Bà Chúa Xứ là một truyền thuyết nổi tiếng ở An Giang. Đây là nơi diễn ra nhiều lễ hội văn hoá đặc sắc. Vậy Bà Chúa Xứ là ai? Và Sự tích Bà Chúa Xứ như thế nào? Hãy cùng Shop Gói Quà tìm hiểu trong bài viết sau đây!
Bà Chúa Xứ là ai?
Tương truyền khoản 200 năm về trước, ở làng Vĩnh Tế có một cô gái bỗng nhiên lên nương rẫy tự xưng là Bà Chúa Xứ lên núi Sam cứu thế. Người con gái ấy cũng nói rằng mình ngồi trên một ngọn núi cao và yêu cầu dân làng lên núi để mời bà thờ cúng.
Khi đó, người trong làng cử 40 thanh niên lực lưỡng khiêng tượng trên núi, nhưng lạ thay, tượng không nhúc nhích chút nào. Bà đã lên đồng lần nữa và nói với dân làng rằng chỉ có 9 trinh nữ mới được rước tượng Bà Chúa Xứ xuống. Những lời này rất hiệu nghiệm, 9 cô gái đã dễ dàng mang pho tượng Bà Chúa Xứ xuống. Tuy nhiên, đến chân núi Sam, sợi dây khiêng tượng bị đứt nên dân làng hiểu ý Bà Chúa Xứ lập miếu thờ ngay tại đó – chân núi Sam. Vì vậy cho đến nay bà mới được gọi là Bà Chúa Xứ Núi Sam.

Mời bạn đọc tham khảo báo giá mới nhất:
Sự tích Bà Chúa Xứ?
Lúc bấy giờ, người Xiêm La (Thái Lan) thường tấn công người Việt Nam sinh sống tại khu vực xung quanh núi Sam. Khi tìm thấy tượng Bà trên đỉnh núi và thắp hương thờ cúng tâm linh, người dân thường bỏ chạy lên núi vì tin tưởng pho tượng Bà Chúa này. Và quả thật, mỗi khi có người dân đến thắp hương khấn vái bà đều bình an vô sự. Vì vậy, Bà Chúa Xứ Núi Sam ngày càng được tin tưởng nơi đây.
Có giai thoại khác kể rằng mấy chục giặc Xiêm đuổi dân chúng lên trên núi Sam để xem hình tượng cao to đẹp đẽ của Bà.Khi thấy pho tượng chúng muốn đưa tượng của bà về nước. Khi dùng dây thừng và cọc khiêng ngược qua tượng, dù được hàng chục chiến sĩ khiêng cũng chỉ đi được vài bước, tượng quá nặng nên không thể đi thêm được nữa. Tổng lãnh đạo tức giận đến mức lấy súng bắn gãy một cánh tay của bức tượng. Và ngay lập tức bà xử tử tên này ngay tại chỗ, những tên còn lại hoảng sợ bỏ chạy. Từ đó quân Xiêm sợ và không dám quấy phá dân làng trong vùng nữa. Thậm chí, sau này dân làng kính trọng gọi bà là Bà Chúa Xứ. Đó là lý do tại sao cho hôm nay khi đến miếu thờ bà, chúng ta thấy một cặp câu đối trong chính điện của miếu:
Mời quý khách tham khảo các sản phẩm tại Gói Quà
“Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng”
Có nghĩa là: Cầu bà tất được, ban thì tất linh, báo điềm trong mộng
Người Xiêm khiếp sợ, người Thanh kính nể, không thể tưởng tượng được.
Nguồn gốc tượng Bà Chúa Xứ
Tương truyền rằng, tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam là một pho tượng cổ rất linh thiêng có từ lâu đời trên đỉnh núi Sam. Lịch sử về nguồn gốc của tượng Bà Chúa Xứ có nhiều giả thuyết, ẩn chứa nhiều bí mật được kể lại cho đến ngày nay.
Giả thuyết thứ nhất: Năm 1941, một nhà khảo cổ học người Pháp đến đền thờ bà chúa Núi Sam để nghiên cứu kỹ lưỡng và kết luận rằng tượng bà thuộc một loại thần Vishnu của Ấn Độ. Tượng hoàng Chúa Xứ có cấu tạo từ chất liệu đá sa thạch mang giá trị nghệ thuật được tạo khắc vào khoảng cuối thế kỷ VI
Giả thuyết thứ hai: Trong quá trình khảo cổ học để tìm hiểu những nét cổ xưa, khẳng định lại được cố nhà văn Sơn Nam đưa ra: Tượng Bà là hình tượng Phật Tổ đàn ông của người Khmer đã bị lãng quên từ lâu trên núi Sam. Người Việt Nam sau đó đặt bức tượng trong một ngôi chùa và vẽ nó để trở thành một bức tượng Phật của một người phụ nữ mặc áo choàng lụa và đeo một chiếc vòng cổ.

Truyền thuyết về tượng Bà Chúa Xứ đến nay vẫn mang nhiều giả thuyết bí ẩn.
Tác giả công trình khoa học “Khai phá vùng đất Châu Đốc” – Trần Văn Dũng, cũng khẳng định tượng đồng tình với giả thuyết thứ hai rằng tượng Bà Chúa Xứ thực chất là một tượng nam ngồi, vị trí ngồi phần đầu của bức tượng hiện được thờ trong điện thờ không phải là nguyên bản mà được làm bằng chất liệu khác với thân tượng.
Đền bà chúa xứ ở đâu?
Khi mới được xây dựng Miếu Bà Chúa Xứ chỉ được làm đơn sơ bằng tre, nứa, lá. Miếu Bà Chúa Xứ có vị trí nằm ở vùng đất trũng phía Tây Bắc núi Sam, lưng tựa vào vách núi, từ chính điện nhìn ra đường quốc lộ, những cánh đồng lúa.
Vào khoảng năm 1870, ngôi chùa được xây dựng lại bằng gạch lấy từ gạch thêm phần vững trãi hơn.
Và cho đến năm 1962, ngôi chùa được tôn tạo toàn bộ bằng đá ghép và lợp ngói âm dương. Năm 1965, quán trọ được mở rộng cho khách và xây dựng thêm sân vườn vào chánh điện chùa. Năm 1972, ngôi đền được tái thiết rộng rãi và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên diện mạo như ngày nay. Người thiết kế là hai kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng.
Kiến trúc chùa thời bấy giờ giống với chữ “quốc”, tháp hình bông sen nở, mái ba tầng, lợp ngói ống lam, góc mái vút cao như mũi một chiếc thuyền. Bên trong chùa có võ ca, chánh điện, đại sảnh, phòng ban quản lý…

Có thể kiến trúc của miếu cho thấy đậm nét nghệ thuật Ấn Độ trong các hoa văn của ngôi chánh điện cổ kính. Bên trên, những thần tượng khỏe mạnh và xinh đẹp dang tay. Các rầm, cửa đều được chạm trổ, chạm khắc, trang trí đẹp mắt và có nhiều tương phản, lớp sơn ở đây cũng vàng rực rỡ. Đặc biệt là bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ trước chánh điện hầu như còn nguyên vẹn.
Tính đến năm 2009, Miếu Bà Chúa Xứ trên núi Sam là ngôi Miếu lớn nhất Việt Nam.
Ý nghĩa của việc thờ tượng Bà Chúa Xứ
Thờ Bà Chúa Xứ được xem là có ý nghĩa quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt nam. Không chỉ được thờ cúng trang trọng tại Miếu Bà Chúa Xứ mà tượng Bà Chúa Xứ còn được nhiều người thỉnh về thờ tại nhà, thế nhưng không phải ai cũng có thể thờ tượng Bà Chúa Xứ tại nhà.
Việc thờ tượng Bà Chúa Xứ có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt. Trước tiên, thờ tượng Bà là để tưởng nhớ, thể hiện lòng tôn kính của người dân trước sự linh hiển, cứu độ tế thế của bà. Bà là vị Thần nữ được tin rằng vô cùng linh ứng, đã từng nhiều lần cứu giúp người dân ở vùng này.
Bà rất linh thiêng trong việc ban phước lành cho nhân dân và trừng trị kẻ ác, rất nhiều câu chuyện kể rằng người dân đi miếu Bà Chúa Xứ cầu nguyện, kêu cầu đã được bà giúp đỡ, phù trợ. Đối với người dân khu vực miền Tây Nam Bộ, Bà Chúa Xứ là điểm tựa tâm linh vững chắc, những giai thoại, sự thần kỳ của bà vẫn được tiếp tục lưu truyền cho đến ngày nay.
Bà Chúa Xứ được xem là một vị thần bảo hộ, vô cùng nổi tiếng và linh ứng. Bà là nữ thần thịnh vượng, có thể phù trợ người làm ăn, kinh doanh, buôn bán, mang đến sự thành công trong công việc. Bà cũng thường được người dân cầu nguyện ban phước lộc, sức khỏe, con cái, cuộc sống gia đình, mong cầu công việc tương lai hay sự thành công trong việc học tập, công danh, sự nghiệp.
Trước đây, người ta thờ tượng Bà Chúa Xứ và tin rằng, bà sẽ phù hộ cho cuộc sống ấm êm, bình an, yên ổn, được mưa thuận gió hòa, may mắn, tránh được sự quấy nhiễu của giặc ngoại xâm, không bị dịch bệnh hoành hành. Ngày nay, tục thờ Bà Chúa Xứ vẫn không hề mai một mà ngày càng được xem trọng, lễ vía Bà Chúa Xứ tại An Giang được tổ chức vô cùng trang trọng, thu hút nhiều người dân và du khách đến tham gia.
Tục thờ Bà Chúa Xứ trở thành một dạng như “Thiên Hậu Nương Nương”, Phật Bà Quan Âm… và mang hơi hướng tín ngưỡng đồng bóng của dân gian. Bà Chúa Xứ được vô cùng tin tưởng về sự linh ứng với rất nhiều sự tích, huyền thoại mang màu sắc bí ẩn, thể hiện “quyền lực linh thiêng” của Bà trong việc ban phúc giáng họa cho người dân vùng này và những người tin thờ, kính ngưỡng Bà.
Những lễ hội tại miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
Lễ túc yết ở miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
Lễ này diễn ra vào ngày 25 và 26 tháng Tư. Tất cả trưởng thôn và ban quản lý chùa trong trang phục chỉnh tề đứng thành hàng hai bên trước chánh điện. Đằng sau họ là bốn đồ đệ và bốn đào thày. Ông chánh bái đứng trước tượng Bà. Lễ vật được chuẩn bị ngay từ trước rất công phu, gồm: một con lợn trắng cạo lông, mổ sạch sẽ, không nấu chín; đĩa đựng lông và tiết lợn, mâm quả, mâm trầu, đĩa cơm muối.
Lễ xây chầu ở miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
Lễ xây chầu được tổ chức sau khi hoàn thành lễ túc yết. Đây là một nghi lễ chung có mặt hầu hết trong các lễ hội miếu đình ở các làng quê khu vực Nam Bộ.
Bắt đầu buổi lễ, ca đồng lớn tiếng hát: “Ca Công tựu vị”, lập tức ông Chánh bái Ca Công liền bước đến bàn thờ đặt giữa võ ca, trên trán giơ hai chiếc trống, miệng hô, thở dài. Một bát nước và cây liễu đã được chuẩn bị cho bàn thờ. Sau khi khấn xong, bát nước được coi là nước thánh, nước thánh được ban phát cho người dân. Ông chánh bái ca công cầm trên tay cành dương nhúng vào bát nước rồi nhỏ xuống như mưa theo một động tác thần diệu nhằm gửi năng lượng thần thánh xuống trần gian để cầu mong vạn vật thịnh vượng, an lành, vụ mùa bội thu. Làm động tác này, ông hô to:

“Nhất xái thiên thanh (một rảy cho trời xanh).
Nhị xái địa linh (hai rảy cho đất tốt lành).
Tam xái nhân trường (ba rảy cho con người trường thọ).
Tứ xái quỷ diệt hình (bốn rảy cho ma quỷ tiêu tan)”.
Sau khi đọc xong, ông Chánh Ca Công đặt chậu nước và cành dương liễu trở lại bàn thờ, đánh ba hồi trống và hát bài “ca công tiếp giá”, lập tức hội chúng hát Chiêng trống và chương trình ca hát bắt đầu. Những vở kịch soạn sẵn bắt đầu xuất hiện, trước là để phục vụ và mua vui cho các cụ bà, sau đó để phục vụ và thưởng thức những người trong lễ hội. Khi đó phần lễ đã kết thúc, phần hội mới bắt đầu.
Lễ chánh tế ở miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
Lễ chánh tế được tổ chức vào ngày 26 của tháng thứ tư lúc 4:00 sáng. Nghi lễ tương tự như lễ cúng, ngoại trừ việc nó bổ sung thêm nội dung văn hóa và bao gồm phần “ban phước”, mang ý nghĩa như người bà đang trao giải thưởng cho mọi người và thầy tế lễ thượng phẩm.
Nhà văn Sơn Nam cho rằng, nghi lễ “thụ tổi” hay “ẩm tộ” nhằm tượng trưng cho sự chiếm hữu của thần linh, việc dùng chén rượu đề nghị để dân làng uống thay: “ ẩm phước”, bàn thờ uống rượu, phải cúng ngay, đưa xuống thầy thượng phẩm, thầy cúng uống tượng trưng, sau đó thịt tế lễ “thụ tô” ăn tượng trưng, thường là các loại trái cây như đang thay dân làng ăn uống đi, như một lời chúc phúc từ các vị thần”.
Theo lịch âm, vào lúc 2 giờ chiều ngày 27 tháng tư, ban quản lý miếu sẽ tổ chức lễ phục sắc, tức là đưa bài vị của Thoại Ngọc Hầu, Châu Thị Tế, Trương Thị Miết và bài vị về lăng của ông Thoại Ngọc Hầu khi ấy lễ hội sẽ chính thức bế mạc.
Tục thờ cúng, xin lộc, cúng vía Bà Chúa Xứ
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ thu hút rất nhiều người dân, du khách đến hành hương, dâng lễ. Lễ hội được công nhận là lễ hội cấp quốc gia, được đánh giá là có phần lễ nặng hơn phần hội, các nghi thức truyền thống chủ yếu do ban quản trị lăng miếu đảm nhận. Đến nay, những tục như xin xăm Bà, thỉnh bùa Bà, vay tiền Bà… vẫn còn được duy trì, được nhiều người biết đến.

Mâm lễ cúng Bà Chúa Xứ
Thông thường, khi tham gia lễ Bà Chúa Xứ núi Sam, các gia đình sẽ chuẩn bị mâm lễ trang nghiêm để dâng lễ cúng bà, mong cầu được bà phù hộ, ban phước lành để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công việc thuận lợi suôn sẻ, đạt thành sở nguyện. Tùy theo từng khu vực mà cách thức chuẩn bị và các lễ vật sẽ có sự khác biệt nhất định.
Thông thường, mâm lễ cúng Bà Chúa Xứ Châu Đốc An Giang sẽ bao gồm những lễ vật sau: Trái cây (mâm ngũ quả), hoa tươi, nhang (hương), đèn cầy, hũ gạo, xôi chè, trầu cau, bánh bao, hũ muối, heo quay nguyên con, trà, rượu, bánh kẹo… Ngoài ra, một số nơi thì còn có thêm cháo trắng, bộ Tam Sên, vịt luộc, gà luộc, giấy cúng Bà Chúa Xứ…
Đặc biệt, heo quay là một trong lễ vật chính, trang trọng, được phần đông người hành lễ sử dụng để dâng cúng bà. Theo phong tục địa phương, khi cúng heo quay, trên lưng heo sẽ phải có một con dao cắm ở sống lưng heo. Tuy nhiên, như đã đề cập, tùy vào tập tục mỗi vùng, tùy vào điều kiện mà bạn chọn các lễ vật phù hợp để dâng cúng Bà.
Văn khấn Bà Chúa Xứ
Văn khấn Bà Chúa Xứ không quá cầu kỳ, phức tạp, khi vào miếu và dâng lễ vật cúng, bạn có thể khấn theo bài khấn sau:
“Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Xứ. Cúi xin được phù hộ độ trì.
Hương tử con là:… (tên, tuổi)
Ngụ tại:…
Hôm nay là ngày… tháng… năm…
Con xin sắm sử kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối, cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý. Cầu… (đọc điều muốn cầu xin chính). Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Xứ, cúi xin được phù hộ độ trì.”
Xin lộc Bà Chúa Xứ
Khi đến lễ vía Bà Chúa Xứ, bạn nên xin lộc bà bằng sự thành tâm và tôn kính. Khi nhận được lộc là một bao lì xì thì hãy sử dụng lộc đúng cách. Có thể tham khảo gợi ý dưới đây:
- Khi rước lộc về nhà, hãy thỉnh lộc bà lên một cái dĩa. Tiếp đó, để 4 ly nước suối kế bên, cầm từng ly lên khấn cung nghinh bà về cư gia, mỗi ly nước sau khi khấn xong thì để ở 1 góc của ngôi nhà, cứ thế để ở 4 góc nhà.
- Sau đó, trân trọng đặt lộc bà lên bàn thờ Quan Âm, khi đặt lên thì trong 9 ngày phải thay nước, cứ 3 ngày thì thay trầu cau 1 lần.
- Khi đã nhận được lộc, có thể bỏ trong ví mang theo người hoặc đặt trên bàn thờ đều được. Ngoài ra, cũng nên nhớ thường xuyên thờ khấn để xin Bà độ cho chúng con.
- Trường hợp đặt lộc trên bàn thờ thì nên đặt thêm 5 thứ ngũ cốc quanh bao lộc đó, đến ngày 23 âm lịch cuối năm thì đem hóa bao lộc này.
Trên đây là một số thông tin về sự tích, ý nghĩa của việc thờ Bà Chúa Xứ. Bà là vị nữ thần thịnh vượng, chuyên ban phước lành, hiện thế để cứu dân độ thế, được người dân thờ phụng đến hiện nay. Tục thờ Bà Chúa Xứ đã có từ rất lâu và vẫn được lưu truyền, gìn giữ cho đến ngày nay. Sự linh thiêng, linh ứng của Bà được rất nhiều người nhắc đến và tin tưởng.
Thông tin mua hàng:
SHOP GÓI QUÀ
Địa chỉ: Số 1A, Ngõ 114 Phố Thanh Lân, Quận Hoàng Mai, Tp. Hà Nội
Hotline mua hàng: 0968309279 (Zalo 24/7)
Email: cskh@goiqua.com